Phiên giao dịch ngày 10/11 chứng kiến cổ phiếu năng lượng tăng mạnh, giá vàng lập đỉnh hai tuần nhờ dữ liệu kinh tế Mỹ yếu, trong khi nhóm nông sản và nguyên liệu mềm bật tăng nhờ kỳ vọng kết thúc đóng cửa chính phủ Mỹ và tín hiệu tích cực từ thương mại Trung – Mỹ.

Năng lượng: Cổ phiếu và giá dầu bật tăng
Cổ phiếu năng lượng tại Mỹ tăng mạnh phiên thứ Hai khi dòng tiền chảy vào nhóm ngành hưởng lợi từ giá dầu và khí tự nhiên. Chỉ số NYSE Energy Sector Index tăng 1,1%, quỹ XLE tăng 0,9%, trong khi Philadelphia Oil Service Sector Index vọt 2,2%. Ngược lại, Dow Jones US Utilities Index giảm nhẹ 0,2%.
Giá dầu thô WTI tăng 0,64% lên 60,13 USD/thùng, trong khi Brent cũng tăng 0,68% lên 64,06 USD/thùng. Giá khí tự nhiên Henry Hub tăng 1,2% đạt 4,37 USD/MMBTU.
Trong tin doanh nghiệp, Eni, Petronas và Euglena khởi công nhà máy sinh học Pengerang tại Malaysia với công suất 650.000 tấn nguyên liệu tái tạo/năm, giúp cổ phiếu Eni tăng 1,4%. Enlight Renewable Energy tăng 4,7% sau khi thông báo dự án Snowflake A tại Arizona được cấp tài trợ nợ 1,44 tỷ USD. Venture Global tăng 5,2% sau khi doanh thu Q3 vượt kỳ vọng và ký hợp đồng cung cấp 1 triệu tấn khí hóa lỏng/năm cho Spain’s Naturgy từ 2030. Sable Offshore tăng 13% sau phát hành riêng lẻ 45,5 triệu cổ phiếu, dự kiến thu về 250 triệu USD.
Kim loại quý: Vàng lập đỉnh hai tuần, bạc, bạch kim và palladium bật tăng
Giá vàng giao ngay tăng 2,38% lên 4.130,3 USD/ounce, cao nhất kể từ 27/10, nhờ dữ liệu kinh tế Mỹ yếu làm gia tăng kỳ vọng Cục Dự trữ Liên bang sẽ cắt giảm lãi suất. Hợp đồng vàng kỳ hạn tháng 12 tăng 2,8% lên 4.122,0 USD/ounce.
Dữ liệu cho thấy kinh tế Mỹ mất việc làm trong tháng 10, tâm lý tiêu dùng giảm, khiến thị trường dự đoán xác suất cắt lãi suất tháng 12 đạt 67%, và lên 80% vào tháng 1. Vàng được dự báo dao động 4.200–4.300 USD/ounce vào cuối năm, trong khi mốc 5.000 USD/ounce vẫn khả thi quý I/2026.
Các kim loại quý khác cũng tăng mạnh. Bạc chạm 50,03 USD/ounce, bạch kim lên 1.568,41 USD, palladium đạt 1.411,33 USD, hưởng lợi từ nhu cầu trú ẩn an toàn và môi trường lãi suất thấp.
Kim loại công nghiệp: Đồng tăng, thép và quặng sắt giảm nhẹ do nhu cầu Trung Quốc yếu
Giá đồng trên sàn COMEX tăng 3,01% lên 5.1060 USD/tấn. Giá thép thanh kỳ hạn tháng 12/2025 trên Sàn Thượng Hải giảm 0,13% về 3.018 CNY/tấn, trong khi quặng sắt trên Sàn Đại Liên giảm 0,32% về 778,5 CNY/tấn. Sàn Singapore-SGX ghi nhận quặng sắt tháng 12 tăng 0,89% lên 102,15 USD/tấn.
Giá quặng sắt chạm đáy nhiều tháng do nhu cầu Trung Quốc chững lại và tồn kho tại cảng tăng, dù nguồn cung toàn cầu giảm giúp hạn chế đà giảm. Tồn kho tại các cảng Trung Quốc tăng 2,1% lên 138,44 triệu tấn. Giá than luyện cốc và coke giảm hơn 1%, trong khi một số sản phẩm thép Thượng Hải tăng nhẹ.
Thị trường thép châu Á dự báo tiếp tục ảm đạm quý IV, khi xuất khẩu giảm tốc và nhu cầu nội địa Trung Quốc suy yếu vào mùa đông. Dù các biện pháp tái cơ cấu và hạn chế cạnh tranh được triển khai, nhu cầu yếu và tăng trưởng kinh tế chậm sẽ giới hạn triển vọng thị trường.
Nông sản: Lúa mì và đậu tương hồi phục nhờ kỳ vọng kết thúc chính phủ Mỹ đóng cửa
Lúa mì CBOT tháng 12 tăng 1,52% lên 5,35-3/4 USD/giạ, lúa mì cứng K.C. tăng 7-3/4 cent lên 5,27 USD/giạ, Minneapolis spring wheat tăng 6-1/4 cent lên 5,64-1/4 USD/giạ. Trong khi đó, ngô tháng 12 tăng 0,59% lên 4,29 USD/giạ.
Đậu tương CBOT tháng 1 tăng 1,16% lên 11,30 USD/giạ, khô đậu tương tăng 2,9 USD lên 320 USD/tấn, dầu đậu tương tăng 0,9 cent lên 50,58 cents/pound. Sự hồi phục nhờ tiến triển chính phủ Mỹ mở cửa trở lại và kỳ vọng Trung Quốc tái cấp giấy phép nhập khẩu đậu tương cho ba công ty Mỹ. Tuy nhiên, hàng đến Trung Quốc vẫn chưa ghi nhận trong tuần này.
Giới phân tích lưu ý, lượng đậu tương tồn kho tại các silo Mỹ lớn do gián đoạn thương mại, trong khi khối lượng xuất khẩu trong tuần đạt 1,09 triệu tấn, thấp hơn cùng kỳ năm trước.
Nguyên liệu mềm: Đường, cà phê, ca cao và bông tăng nhẹ
Đường thô NY #11 tháng 3 tăng 0,71% lên 14,20 cents/pound, thoát đáy 5 năm. Xuất khẩu của Ấn Độ dự kiến 1,5 triệu tấn, nhưng còn nhiều câu hỏi về khả năng thực thi do giá thế giới thấp. Đường trắng ICE #5 tháng 12 giảm 0,34% còn 408,20 USD/tấn.
Ca cao tăng nhẹ, ICE London #7 tháng 12 lên 4.440 pounds/tấn (+0,94%), ICE NY tháng 12 đạt 6.201 USD/tấn (+1,48%) nhờ lượng hàng từ Bờ Biển Ngà tăng.
Cà phê Arabica tháng 12 tăng 1,7% lên 3,9315 USD/pound sau khi Colombia giảm 10% sản lượng trong tháng 10, trong khi Robusta ICE tháng 1 giảm 0,54% xuống 4.623 USD/tấn do thời tiết mưa tại Việt Nam.
Bông ghi nhận tăng 55–69 điểm, đóng cửa hợp đồng tháng 12/25 ở 64,31 cents/pound, hưởng lợi từ xu hướng tăng dầu thô và dòng vốn vào hàng hóa mềm.




