Báo cáo WASDE ngày 14/11 là bản cập nhật đầu tiên kể từ 12/9 sau sáu tuần thiếu dữ liệu vì Chính phủ Mỹ đóng cửa vì vậy rủi ro biến động sẽ cao hơn bình thường và dễ lệch so với đồng thuận nhất là ở đậu tương tiếp đến là ngô và lúa mì.
Tại Mỹ, tồn kho ngô cuối vụ có thể tăng nhẹ do tồn kho chuyển sang đầu vụ cao và khả năng hạ nhu cầu, đậu tương thì tình trạng khá cân bằng, lúa mì có nguy cơ tồn kho tăng nếu sản lượng bị nâng.
Trung Quốc chưa xác nhận các gói mua lớn đậu tương Mỹ, trong khi COFCO đã ký thỏa thuận khung trị giá hơn 10 tỷ USD với các nhà cung cấp Brazil (đậu, dầu đậu, dầu cọ…), tạm thời củng cố lợi thế của Brazil. Thái Lan nâng hạn ngạch ngô thức ăn chăn nuôi năm 2026 lên 1 triệu tấn với thuế 0% (thay cho hạn ngạch khoảng 54,7 nghìn tấn, thuế 20%). EU giảm nhập ngô/đậu so với cùng kỳ do tăng nguồn nội khối, thay thế thức ăn và cạnh tranh giá.
Tại Brazil, gieo trồng đậu đang tiến triển tốt, miền Bắc còn thiếu ẩm nhưng dự báo tuần 2 sẽ cải thiện, còn Nam Brazil/Paraguay có mưa. Ở Argentina, hai tuần tới khá thuận lợi cho công việc đồng ruộng riêng Córdoba có thể cần bổ sung mưa vào cuối tháng.
Nhận định cung - cầu
Ngô
Thị trường nghiêng về khả năng hạ năng suất ngô so với mức 186,7 giạ/mẫu của tháng 9, với nhiều ước tính quanh 184 giạ/mẫu, lịch sử cũng cho thấy tháng 11 thường có điều chỉnh giảm nhỏ nếu tháng 10 đã hạ trước đó. Ở phía cầu, sản lượng ethanol duy trì nhịp sản xuất tích cực nhưng chủ yếu chỉ đủ giữ mục tiêu ở mức gần 5,6 tỷ giạ (vẫn có rủi ro điều chỉnh nhẹ). Xuất khẩu được hỗ trợ bởi tốc độ kiểm định rất mạnh song thiếu dữ liệu bán hàng cập nhật, tạo thế “kéo-đẩy” giữa kiểm định cao và doanh số xuất khẩu mờ nhạt. Mục thức ăn chăn nuôi & phần hao hụt có thể bị hạ sau tín hiệu từ tồn kho 30/9 cho thấy năm trước ước tính quá cao. Với các điều chỉnh nói trên, tồn kho cuối vụ ngô Mỹ nhiều khả năng tăng nhẹ đặc biệt nếu USDA giảm nhu cầu và giữ quan điểm thận trọng về xuất khẩu.
Đậu tương
Đối với đậu tương, hầu hết mô hình dự báo nghiêng về hạ nhẹ năng suất xuống khoảng 53,1 bpa (từ 53,5), kéo sản lượng về khoảng 4,24-4,27 tỷ giạ. Tuy nhiên xuất khẩu là mắt xích yếu, dù có tín hiệu ngoại giao, đơn mua thực tế từ Trung Quốc vẫn mỏng trong khi đó chênh lệch thuế (Mỹ 13% so với Brazil 3%) và giá FOB tại vịnh Hoa Kỳ cao hơn hàng Brazil khiến đậu tương Mỹ kém cạnh tranh. Ngược lại, nghiền nội địa ổn định/nhích tăng (NOPA ghi nhận tăng trưởng YoY), qua đó hỗ trợ biên lợi nhuận ép dầu và tỷ trọng giá dầu trong sản phẩm. Thêm vào đó, tín dụng 45Z cho diesel tái tạo từ 1/1/2026 sẽ là điểm tựa trung hạn cho dầu đậu tương. Tổng hòa các yếu tố, tồn kho cuối vụ Mỹ nhiều khả năng đi ngang quanh ~300 triệu giạ, sản lượng giảm nhưng xuất khẩu cũng giảm, tạo thế cân bằng.
Lúa mì
USDA đã nâng ước tính trong báo cáo quý vào tháng 9 của Hoa Kỳ chủ yếu gồm lúa mì, lúa mạch, yến mạch lên khoảng 1,985 tỷ giạ và khả năng sẽ được phản ánh đầy đủ trong báo cáo tháng 11. Xuất khẩu gần đây có cải thiện cả về đơn bán ký mới và giao hàng nhưng nếu sản lượng tăng nhanh hơn xuất khẩu, tồn kho vẫn có thể ở mức cao nhất từ 2019/20. Nga/ EU/ Úc có thay đổi đáng kể về sản lượng và năng lực bán, giá FOB khu vực Biển Đen nhích lên theo mùa do chi phí lưu trữ, song nguồn cung Nga hiện tại vẫn dồi dào.
Động lực giá và chiến lược
Ngô
Lịch sử cho thấy biến động giá ngô trong ngày ra báo cáo WASDE tháng 11 ở mức vừa phải (biên độ trong ngày khoảng 12-13 xu), nhưng năm nay có thể cao hơn do “khoảng trống dữ liệu”. Mặt hỗ trợ gồm kiểm định xuất khẩu mạnh và kỳ vọng USDA hạ năng suất mặt cản trở là tồn kho cuối vụ lớn, điều kiện thuận lợi tại Brazil, còn việc Thái Lan mở hạn ngạch ngô 2026 (thuế 0%) có lợi cho hàng Mỹ nhưng chỉ hiệu lực 1-6/2026 nên tác động chậm. Chiến lược phù hợp hiện tại là ưu tiên bán phòng hộ khi giá hồi lên các vùng kháng cự kỹ thuật, đồng thời dùng quyền chọn để giữ dư địa tăng nếu USDA bất ngờ cắt giảm mạnh năng suất.
Đậu tương
Đậu tương thường biến động mạnh nhất trong ngày ra báo cáo WASDE đặc biệt khi USDA điều chỉnh xuất khẩu hoặc năng suất với biên độ phổ biến 25-35 “xu”. Yếu tố hỗ trợ giá đậu tương hiện tại gồm biên lợi nhuận ép dầu vững, câu chuyện nhiên liệu sinh học/diesel với tín dụng 45Z và rủi ro thời tiết cục bộ tại Nam Mỹ. Tuy nhiên mặt cản trở là doanh số sang Trung Quốc yếu, cạnh tranh FOB (giá chào giao lên tàu) từ Brazil, và thời tiết Brazil tổng thể đang cải thiện. Về quản trị rủi ro, với đậu tương xu hướng trung tính, có thể cân nhắc bán kỳ hạn gần và mua kỳ hạn xa khi đường cong giá chịu áp lực bán giao ngay còn với dầu đậu tương thiên hướng tích cực hơn nhờ biên lợi nhuận ép dầu ổn định và tín dụng 45Z, có thể ưu tiên mua dầu đậu và bán khô đậu nếu tỷ trọng giá trị dầu trong rổ sản phẩm nghiền vẫn duy trì trên xu hướng tăng.
Lúa mì
Báo cáo WASDE tháng 11 của lúa mì thường có mức biến động cao hơn về tỷ lệ phần trăm so với tháng 10, nhưng xét biến động tuyệt đối lại thuộc nhóm nhẹ hơn so với đậu tương hoặc ngô. Về quản trị rủi ro, nên bán phòng hộ khi giá chạm các vùng kháng cự, đồng thời đặt lệnh buy-stop để bảo vệ vị thế trong trường hợp xuất hiện bất ngờ về cắt giảm sản lượng toàn cầu.
Kết luận
Báo cáo WASDE ngày 14/11 nhiều khả năng biến động cao hơn thường lệ do thiếu dữ liệu tháng 10. Trong đó, đậu tương là tâm điểm rủi ro biến động vì xuất khẩu yếu và Trung Quốc còn thận trọng. Ngô đối mặt rủi ro giảm nếu USDA xác nhận hạ mục thức ăn chăn nuôi & phần hao hụt thống kê khiến tổng nhu cầu thấp hơn và tồn kho cuối vụ cao hơn dù xuất khẩu vẫn là điểm sáng. Lúa mì chịu áp lực từ nguồn cung lớn và tồn kho cao, nên dư địa tăng chủ yếu phụ thuộc các điều chỉnh về sản lượng và xuất khẩu toàn cầu.




