Thị trường hàng hóa 29/9: Vàng lập đỉnh lịch sử vượt 3.800 USD/ounce, dầu lao dốc gần 4%, khí tự nhiên bật tăng. Ngũ cốc chịu áp lực thu hoạch, cà phê giảm, ca cao và đường hồi phục.
Năng lượng: Dầu giảm mạnh, khí tự nhiên khởi sắc
Phiên 29/9, cổ phiếu năng lượng đồng loạt giảm sâu. Chỉ số năng lượng NYSE mất 2%, quỹ Energy Select Sector SPDR Fund (XLE) hạ 2,1%, trong khi chỉ số dịch vụ dầu mỏ Philadelphia giảm 1,8%.
Giá dầu lao dốc khi WTI giảm 3,45% xuống 63,45 USD/thùng, còn Brent hạ 3,08% xuống 67,09 USD/thùng. Ngược lại, khí tự nhiên Henry Hub tăng 2% lên 3,27 USD/MMBTU, nhờ kỳ vọng nhu cầu điện sưởi tăng vào mùa đông.
Trong tin doanh nghiệp, PG&E (PCG) tăng 1% sau khi công bố kế hoạch chi 73 tỷ USD vốn đầu tư giai đoạn 2026–2030. TotalEnergies (TTE) hạ dự báo chi phí vốn, khiến cổ phiếu giảm 2,2%. BP (BP) mất 2,8% sau khi duyệt dự án khoan trị giá 5 tỷ USD tại Vịnh Mexico. Ngược lại, American Resources (AREC) tăng 9% nhờ công ty con ký thỏa thuận dài hạn với POSCO International America về tinh chế đất hiếm.
Kim loại quý: Vàng lập đỉnh mới, bạc và bạch kim bứt phá
Giá vàng vượt mốc 3.800 USD/ounce lần đầu tiên, nhờ kỳ vọng Fed tiếp tục cắt giảm lãi suất, lo ngại chính phủ Mỹ đóng cửa và căng thẳng địa chính trị leo thang. Vàng giao ngay tăng 1,31% lên 3.847,7 USD/ounce. Vàng kỳ hạn tháng 12 tăng 1,21% lên 3.855,2 USD/ounce.
Đồng USD giảm 0,2%, hỗ trợ thêm cho kim loại quý. Bạc tăng 1,9% lên 46,85 USD/ounce – mức cao nhất 14 năm. Bạch kim vọt 1,5% lên 1.592,65 USD/ounce, đỉnh 12 năm, trong khi palladium giảm 1,1% còn 1.255,61 USD/ounce.
Kim loại công nghiệp: Đồng tăng nhờ nguồn cung thắt chặt, quặng sắt suy yếu
Đồng tăng giá trong ngày 29/9, hưởng lợi từ đồng USD yếu và lo ngại gián đoạn nguồn cung sau sự cố tại mỏ Grasberg (Indonesia) – mỏ lớn thứ hai thế giới. Giá đồng trên sàn COMEX tăng 2,53%, kết phiên tại 4.8920 USD/tấn. Đồng kỳ hạn 3 tháng trên LME tăng 0,8% lên 10.259,5 USD/tấn, từng chạm 10.485 USD/tấn tuần trước.
Trong khi đó, quặng sắt lao dốc do nhu cầu thép yếu và tồn kho tại cảng Trung Quốc tăng cao. Hợp đồng quặng sắt tháng 1/2026 trên sàn Đại Liên giảm 1,57% xuống 784 CNY/tấn, còn hợp đồng tháng 10 trên sàn Singapore lùi 0,43% về 103,15 USD/tấn. Tồn kho quặng sắt tại cảng Trung Quốc tăng lên 132,5 triệu tấn, gây áp lực giá.
Ngũ cốc: Lúa mì đi ngang, đậu tương và ngô chịu áp lực
Lúa mì Mỹ biến động nhẹ trước báo cáo tồn kho và sản lượng từ USDA. Lúa mì đỏ mềm CBOT tháng 12 gần như không đổi ở 5,19 USD/giạ, trong khi lúa mì cứng KC tăng 2,75 cent và lúa mì vụ xuân Minneapolis tăng 1,5 cent.
Đậu tương CBOT tháng 11 giảm 3,25 cent xuống 10,10 USD/giạ do áp lực từ tiến độ thu hoạch tại Mỹ, trong khi lo ngại Trung Quốc giảm mua đậu Mỹ. Ngô tháng 12 giảm nhẹ 0,1% xuống 4,21 USD/giạ. USDA cho biết kiểm tra xuất khẩu ngô đạt 1,53 triệu tấn, cao hơn cùng kỳ năm ngoái.
Nguyên liệu mềm: Cà phê giảm, ca cao và đường tăng, bông lao dốc
Cà phê Arabica tháng 12 giảm 1,55% xuống 3,555 USD/pound do mưa thuận lợi tại Brazil. Robusta tháng 11 giảm nhẹ còn 4.174 USD/tấn.
Ca cao phục hồi, hợp đồng NY tháng 12 tăng 1,3% lên 7.031 USD/tấn nhờ kỳ vọng mùa vụ tốt tại Bờ Biển Ngà. Đường thô tháng 10 tăng 0,95% lên 16,02 cent/pound, trong khi đường trắng London tháng 12 tăng 0,28% lên 462,3 USD/tấn.
Ngược lại, giá bông lao dốc khi hợp đồng tháng 12 giảm 78 điểm xuống 65,5 cent/pound, chịu áp lực từ đà giảm của dầu thô và tiến độ mùa vụ tại Mỹ.