Sự kiện vĩ mô trong tuần
Quyết định lãi suất của Fed
Thị trường hiện nay đang định kỳ vọng khoảng 88% khả năng Fed sẽ cắt giảm lãi suất vào tháng 9 trong bối cảnh lạm phát hạ nhiệt và tỷ lệ thất nghiệp tăng. Do đó, tuyên bố chính sách của Chủ tịch Fed Jerome Powell trong tuần này sẽ là tâm điểm chú ý.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ sẽ kết thúc cuộc họp chính sách tháng 7 vào thứ Tư, dự kiến sẽ cho biết họ muốn tin tưởng hơn rằng lạm phát đang giảm bền vững về mục tiêu 2% trước khi cắt giảm lãi suất.
Dữ liệu lạm phát công bố hôm thứ Sáu tuần trước đã nhấn mạnh kỳ vọng rằng Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ sẽ bắt đầu cắt giảm lãi suất vào tháng 9.
Fed đã tăng lãi suất chính sách thêm 525 điểm cơ bản kể từ năm 2022 và duy trì ở mức hiện tại là 5,25% - 5,50% kể từ tháng 7 năm ngoái.
PMI khu vực đồng Euro
Trong khi tăng trưởng kinh tế ở khu vực đồng Euro vẫn chậm chạp, sức mạnh của ngành dịch vụ vẫn chiếm ưu thế do được thúc đẩy bởi du lịch và khiến lạm phát dịch vụ vẫn dai dẳng.
Điều này đặt ra thách thức cho ECB, do đó dữ liệu PMI vào thứ Tư sẽ được theo dõi chặt chẽ sau khi ngân hàng trung ương này giữ nguyên lãi suất ở mức 3,75% vào thứ Năm tuần trước và từ chối đưa ra triển vọng trong tương lai.
ECB đã hạ lãi suất lần đầu tiên sau 5 năm vào tháng 6, sau khi các dấu hiệu cho thấy lạm phát đang giảm bớt.
Thị trường đang kỳ vọng ECB sẽ tiếp tục cắt giảm lãi suất vào tháng 9, nhằm hỗ trợ cho thị trường chứng khoán trong khu vực, tuy nhiên dữ liệu PMI tốt tuần này có thể sẽ làm thay đổi quan điểm của ECB.
Dữ liệu bảng lương phi nông nghiệp
Báo cáo bảng lương phi nông nghiệp sẽ được theo dõi chặt chẽ và dự kiến công bố vào thứ Sáu, khi các nhà đầu tư cố gắng đánh giá xem liệu thị trường lao động có tiếp tục hạ nhiệt trong tháng 7 hay không.
Các nhà kinh tế dự báo nền kinh tế Hoa Kỳ sẽ có thêm 177.000 việc làm vào tháng 7, giảm so với mức 206.000 của tháng trước.
Tỷ lệ thất nghiệp, vốn đã tăng cao trong ba tháng qua, dự kiến sẽ giữ nguyên ở mức 4,1%.
Trước báo cáo vào thứ Sáu, Hoa Kỳ sẽ công bố dữ liệu về việc làm của JOLTS vào thứ Ba.
Quyết định của Ngân hàng Nhật Bản
BOJ sẽ kết thúc cuộc họp chính sách mới nhất vào thứ Tư, với kỳ vọng về việc tăng lãi suất đang gia tăng sau khi các chính trị gia cấp cao, bao gồm cả thủ tướng, ám chỉ đến nhu cầu bình thường hóa chính sách trong ngắn hạn.
Tác động của đồng Yên yếu đối với chi tiêu của hộ gia đình và doanh nghiệp dường như đang trở thành vấn đề trọng tâm trong hội nghị lãnh đạo Đảng Dân chủ Tự do cầm quyền vào tháng 9.
Thực tế là đồng tiền này đã phục hồi đáng kinh ngạc từ mức thấp nhất trong ba thập kỷ vào tháng 7. Thị trường kỳ vọng rằng BOJ sẽ có nhiều dư địa để tăng lãi suất và hỗ trợ đồng yên tăng giá.
Cuộc họp của Ngân hàng Anh
BoE sẽ tổ chức cuộc họp chính sách vào thứ Năm khi các nhà đầu tư đang chia rẽ về việc liệu các nhà hoạch định chính sách có thực hiện đợt cắt giảm lãi suất đầu tiên kể từ năm 2020 hay không.
Mức độ không chắc chắn tăng lên trước thềm cuộc họp khi các quan chức của ngân hàng trung ương đã không phát biểu công khai trong hơn hai tháng do các quy định liên quan đến cuộc tổng tuyển cử ngày 4 tháng 7 của Anh.
Các nhà đầu tư đang chờ đợi xem liệu mức lạm phát giá dịch vụ cao hơn dự kiến gần đây có đủ để ngăn BoE cắt giảm lãi suất từ mức cao nhất trong 16 năm là 5,25% hay không.
Thị trường hàng hóa
Theo góc độ vĩ mô, nền kinh tế toàn cầu tiếp tục suy yếu, cùng với lạm phát giảm bớt và những lo ngại về nền kinh tế Trung Quốc vẫn tiếp tục nổi lên. Tuy nhiên, thị trường cũng đang tiến gần hơn đến việc nới lỏng chính sách của ECB và Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ. Cuộc họp FOMC tháng 7 có thể sẽ không dẫn đến việc cắt giảm lãi suất, nhưng có khả năng Fed sẽ chuẩn bị để cắt giảm vào tháng 9. Trong ngắn hạn, các dự báo cho thấy lo ngại về nền kinh tế chậm lại do Fed hành động chậm chạp. Do đó, thị trường hàng hóa vẫn có khả năng vẫn chịu áp lực từ những lo ngại về nhu cầu.
Mặt khác, bằng chứng về lạm phát giảm và kinh tế chậm lại của Hoa Kỳ có thể sẽ hạn chế mức tăng của đồng đô la, do đó làm giảm áp lực lên thị trường hàng hóa.
Gần đây, chính phủ Trung Quốc đã giảm lãi suất, hạ giá nhiên liệu bán lẻ, cho phép các chính quyền địa phương mở rộng nợ và nới lỏng các thủ tục vay bất động sản, tuy nhiên tất cả đều không mang lại sự lạc quan về mặt vĩ mô.
Các yếu tố cơ bản của thị trường hàng hóa nhìn chung vẫn yếu kém, với nhu cầu sản xuất giảm ở hầu hết mọi thị trường và mối lo ngại về nguồn cung đang giảm dần. Tuy nhiên, các thị trường như ngô, lúa mì, đậu tương, khí tự nhiên, đường và đồng đang tiến gần hơn đến các mức giá hợp lý. Do vậy, xu hướng giảm dự kiến sẽ tiếp diễn với khả năng tạo đáy vào nửa cuối tháng 8.
Quan điểm dự báo | ||
USD | Sự suy yếu đồng Yuan và Rupee hỗ trợ đồng Đô. | Tích cực |
Vàng | Sức mạnh đồng Đô khiến giá giảm. | Tiêu cực |
Bạc | Lượng nắm giữ của các quỹ ETF tăng, hỗ trợ ở mức 28 USD. | Tích cực |
Đồng | Tồn kho tăng và lo ngại về nhu cầu của Trung Quốc, mục tiêu giảm giá ở mức 4 USD. | Tiêu cực |
Dầu thô | Nhu cầu toàn cầu chậm lại mặc dù tồn kho tại Mỹ thắt chặt hơn. | Tiêu cực |
Xăng | Nhu cầu yếu và tồn kho tăng. | Tiêu cực |
Khí tự nhiên | Tiếp tục xu hướng giảm. | Tiêu cực |
Đậu tương | Cơ hội bán khi giá phục hồi yếu. | Tiêu cực |
Ngô | Vùng giá hợp lí, dư địa bán của các quỹ hạn chế. | Trung lập |
Lúa mì | Nguồn cung tăng gây áp lực. | Tiêu cực |
Đường | Sản lượng thu hoạch của Brazil tăng cao hơn so với vụ trước. | Tiêu cực |
Cà phê | Thời tiết ẩm ướt dự kiến sẽ làm tăng sản lượng sắp tới tại Brazil. | Tiêu cực |
Ca cao | Sản lượng tại Tây Phi dự kiến sẽ cao hơn vào mùa tới. | Tiêu cực |
Bông | Sản lượng cao hơn của Hoa Kỳ năm 2024/25 tiếp tục gây áp lực. | Tiêu cực |
Cơ hội mua vàng
Cả thị trường vàng và bạc đều trong trạng thái quá mua về mặt kỹ thuật và có xu hướng thanh lý mạnh mẽ. Do đó, các nhà đầu tư nên rất thận trọng trong việc mua vào và có thể chờ đợi quanh mức thoái lui 50% của đợt tăng từ tháng 3 đến tháng 7 ở mức 2352 USD đối với hợp đồng tương lai vàng tháng 10.
Tại Hoa Kỳ, nỗi lo ngại về bất ổn chính trị đang tiếp tục gia tăng khi cuộc bầu cử đến gần. Thị trường cũng đang tăng kỳ vọng về một loạt đợt cắt giảm lãi suất trên quy mô toàn cầu trước cuối năm và đồng USD dường như đã chuyển sang xu hướng giảm. Ngoài ra, nhu cầu vàng của Nhật Bản dự kiến sẽ phục hồi nhờ triển vọng kinh tế được cải thiện, sự thay đổi từ chính sách ôn hòa sang diều hâu của ngân hàng trung ương, sự bùng nổ của du lịch và quan trọng nhất là từ sự chuyển dịch tiềm năng sang xu hướng tăng của đồng Yên.
Nhu cầu vàng của Nhật Bản có thể phục hồi đáng kể sau 20 năm giảm phát và lượng mua vàng rất thấp. Ngoài ra, sự can thiệp của Ngân hàng Trung ương Nhật Bản nhằm củng cố sức mạnh đồng Yên Nhật có thể sẽ giúp cải thiện nhu cầu vàng. Mặt khác, lượng nắm giữ vàng tại các quỹ ETF đã tăng lên gần 2 triệu ounce.
Tồn kho đồng tại Thượng Hải và nhu cầu của Trung Quốc
Trung Quốc là nước tiêu thụ đồng lớn nhất thế giới trong nhiều năm và sức mạnh kinh tế của nước này có thể được đo lường thông qua việc sản xuất và nhập khẩu đồng. Trong năm 2023, nhập khẩu đồng chưa gia công giảm 6% so với năm trước, tuy nhiên nhập khẩu quặng và tinh quặng tăng 9%.
Số liệu hôm thứ Sáu tuần trước cho thấy tồn kho đồng trên Sàn giao dịch Thượng Hải là 214.487 tấn, tăng 33.164 tấn so với tuần trước và là mức tăng thứ 11 trong 12 tuần qua. Thứ Sáu trước nữa cho thấy mức tăng 94.803 tấn, đây là mức tăng lớn nhất trong lịch sử. Trở lại đầu tháng 12, tồn kho tại Thượng Hải đạt tổng cộng 26.149 tấn, mức thấp nhất kể từ tháng 5 năm 2009.
Tồn kho tại Thượng Hải thường đạt mức cao nhất trong năm vào tháng 2 hoặc tháng 3. Kỳ nghỉ Tết Nguyên đán khiến sản xuất chậm lại và nguồn cung bị tắc nghẽn.
Chỉ số Shanghai Composite và CSI-300 đạt mức thấp nhất trong 5 năm vào đầu tháng 2, nhưng đã phục hồi trong 4 tuần qua. Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc Trung Quốc (NPC) sẽ bắt đầu cuộc họp thường niên vào tuần tới và dự kiến sẽ đưa ra mục tiêu tăng trưởng kinh tế hàng năm của chính phủ. Những tin tức tích cực từ NPC có thể báo hiệu hoạt động nhập khẩu hàng hóa của Trung Quốc mạnh hơn trong năm nay.
Tồn kho nhiên liệu máy bay tăng dự báo nhu cầu mạnh trong Quý 3
Tồn kho nhiên liệu máy bay của Mỹ tăng năm nay có thể là một dấu hiệu sớm cho nhu cầu đi lại cao trong quý 3, giúp củng cố giá nhóm sản phẩm chưng cất cho đến cuối năm.
Dự trữ nhiên liệu máy bay loại kerosene của Mỹ có xu hướng đạt đỉnh trong năm vào khoảng tháng 6 – tháng 10. Tuy nhiên, dự trữ tuần vừa rồi đạt mức 43,878 triệu thùng, cao hơn 2,9 triệu thùng so với cùng kỳ năm trước và 3,2 triệu thùng so với 2022. Đây cũng là mức dự trữ cao nhất kể từ tháng 8/2021. Nhìn dài hơn từ năm 2000, tồn kho nhiên liệu máy bay của Mỹ đã chạm đáy tại 33,904 triệu thùng vào tháng 1/2023 và có mức cao nhất tại 48,708 triệu thùng vào tháng 7/2010.
Theo mùa vụ, nhu cầu trong năm thường tăng vào đầu tháng 7 và đầu tháng 1. Năm nay, nhu cầu ước tính đạt cao nhất theo tuần tại mức 1,850 triệu thùng/ngày, ghi nhận trong tuần kết thúc vào 24/5,
Tuy nhiên, nhu cầu vẫn đang thấp hơn mức đỉnh đạt được trước dịch Covid, ghi nhận tại 2,006 triệu thùng/ngày vào 2018 và 2,088 triệu thùng/ngày vào 2019.
Với việc tồn kho tăng lên hướng tới khởi đầu của giai đoạn tăng sản lượng, ngành công nghiệp dường như đang dự kiến sẽ có mức nhu cầu cao trong vài tháng tới.
ULSD (diesel có sulfur cực thấp) thường được sử dụng làm đại diện cho nhóm sản phẩm chưng cất, bao gồm kerosene trong nhiên liệu máy bay.
Khí tự nhiên – Các yếu tố tiêu cực giảm dần
Giá khí tự nhiên đã hồi phục đáng kể với mức tăng gần $0,8 kể từ đầu tháng 5. Mặc dù nguồn cung của Mỹ vẫn đang cao hơn 29% so với mức trung bình 5 năm, song nếu so với con số 41% hồi đầu năm thì đây là một tín hiệu khá tích cực.
Đợt nóng đầu mùa ở một vài khu vực cho thấy nhu cầu làm mát ở mức cao, với 17 ngày ghi nhận nhiệt độ trên mức trung bình tại Mỹ trong 3 tuần qua.
Về xuất khẩu, EIA hiện dự báo công suất xuất khẩu LNG của Mỹ sẽ đạt mức cao nhất trong vòng 4 năm trở lại đây tại thời điểm cuối năm, tăng 4 bcf/ngày, +33% so với 2023. Tuy nhiên, mức công suất thực tế đã gần đạt con số dự báo, do đó chỉ cần một trục trặc nhỏ ở các cảng cũng có thể gây ra sự gián đoạn.
Về phân tích kỹ thuật, mặc dù đã tăng đáng kể trong thời gian gần đây, giá vẫn thấp hơn rất nhiều so với mức đỉnh lịch sử. Bên cạnh đó, việc loại bỏ dần những nhiên liệu gây ô nhiễm nặng như than và dầu thô có thể hỗ trợ xu hướng tăng bền vững của giá khí tự nhiên.
Trong ngắn hạn giá khí vẫn đang điều chỉnh sau khi quá mua, do đó NĐT nên giữ quan điểm thận trọng và lựa điểm vào để giải ngân dần. Hỗ trợ gần nhất là vùng $2,74 - $2,79 đối với hợp đồng tháng 8.
Đậu tương – Thời tiết thuận lợi nhưng nhu cầu của Trung Quốc có thể hỗ trợ đà tăng ngắn hạn
Giá đậu tương đã giảm mạnh từ tháng 5, với hợp đồng tháng 11 đạt mức giảm 1.98 USD/bushel trong tuần. Tuy nhiên, có thể sẽ có một đợt phục hồi nhẹ do nhu cầu tăng lên, mặc dù thời tiết ở Mỹ vẫn thuận lợi và dự báo sản lượng cũng tăng.
Nhiệt độ dự kiến sẽ ở mức ôn hoà theo mùa hoặc dưới mức trung bình trong 10 ngày tới, ngoại trừ vùng Đồng bằng phía trên Hoa Kỳ. Hầu hết tại các khu vực, đất đều có đủ độ ẩm để chịu qua một đợt khô hạn miễn là không có nắng nóng cao độ đi kèm.
Bên cạnh yếu tố thời tiết, những phát ngôn tại Đại hội Đảng Cộng hòa khiến những người kỳ vọng giá tăng lo lắng nếu Trump thắng cử, ông sẽ khơi mào lại cuộc chiến thương mại với Trung Quốc.
Mặt khác, có một lập luận ngược lại rằng nếu Trump thắng cử và hạn chế tài trợ cho chiến tranh ở Ukraine, điều này có thể giúp Nga và giảm xuất khẩu của Ukraine. Mặc dù Trung Quốc hiện chỉ mua một lượng rất nhỏ đậu tương Mỹ vụ mới, nhưng dự kiến sẽ trở thành người mua tích cực hơn trong ngắn hạn.
Giá đậu tương Mỹ tuần này cao hơn 0.05 USD/bushel so với Argentina và 0.33 USD/bushel so với Brazil. Trong ngắn hạn, nhu cầu đậu tương bổ sung từ Trung Quốc có thể đủ để bù đắp thời tiết thuận lợi ở Mỹ và tạo ra một sự phục hồi nhỏ. Tuy nhiên, trong dài hạn, nguồn cung sẽ tăng, điều này sẽ hạn chế mức độ phục hồi.
Khô đậu tương – Nguồn cung có thể bị thắt chặt khi các nhà máy chế biến ngừng hoạt động
Bảng cân đối cung cầu cho thấy triển vọng không tích cực đối với thị trường. Thời điểm đậu nành hình thành hạt (pod setting) đang đến, và các nhà giao dịch đang cố gắng xác định liệu thời tiết có gây thiệt hại đáng kể cho mùa vụ hay không.
Vị thế mở đã tăng lên trong đợt giảm, đạt mức cao nhất kể từ tháng 11 năm ngoái và cho thấy có nhiều lệnh bán khống mới tham gia vào thị trường ở các mức giá thấp hơn. Tuy nhiên, đợt giảm kéo dài đã khiến các chỉ số kỹ thuật rơi vào trạng thái quá bán, và những người bán khống mới có thể trở nên lo lắng nếu thị trường bắt đầu phục hồi. Ngoài ra, biểu đồ liên tục của hợp đồng khô đậu tương tháng 12 hàng tuần cho thấy có một đường xu hướng hỗ trợ dài hạn quan trọng kéo dài từ mức thấp nhất năm 2009 tại 304.0 USD/tấn.
Giá khô đậu tương có thể sẵn sàng phục hồi khi giá đã đạt tới mức thấp mà người mua trên toàn thế giới thấy phù hợp để mua vào nhiều hơn. Giá hiện tại chưa từng thấy trong ít nhất 4 năm.
Trong năm qua, các nhà chế biến ở Mỹ đã có lợi nhuận rất cao từ việc ép đậu tương, do đó họ đã vận hành các nhà máy hết công suất để tận dụng tối ưu lợi nhuận. Việc hoạt động liên tục với cường độ cao đã làm các nhà máy cần phải dừng lại để bảo trì và sửa chữa.
Dự kiến thời gian ngừng hoạt động trong tháng Tám sẽ đạt mức kỷ lục hàng tháng và điều này sẽ làm thắt chặt nguồn cung khô đậu tương từ vụ cũ của Mỹ vì lượng khô đậu tương lưu thông chưa được bổ sung đầy đủ từ các tổn thất sản xuất hồi đầu năm nay. 3 nhà máy ép mới sẽ bắt đầu hoạt động vào tháng 8, nhưng sản lượng sẽ không kịp ảnh hưởng đến cân đối cung cầu của vụ cũ. Hơn nữa, đã quá muộn trong mùa vụ cũ để việc nhập khẩu khô đậu tương từ Nam Mỹ có thể ảnh hưởng đến nguồn cung của Mỹ.
Thời gian ngừng hoạt động của các nhà máy chế biến có thể tạo ra một đợt phục hồi giá tạm thời cho khô đậu tương từ vụ cũ. Vì vậy các nhà giao dịch có thể mở vị thế mua trong tháng tới để tận dụng đợt tăng giá này.
Đậu tương - Thời tiết không xấu như mong đợi
Bảng cân đối cung cầu cho thấy triển vọng không tích cực đối với thị trường. Thời điểm đậu nành hình thành hạt (pod setting) đang đến, và các nhà giao dịch đang cố gắng xác định liệu thời tiết có gây thiệt hại đáng kể cho mùa vụ hay không.
Đầu tuần, giá đậu tương tăng mạnh nhưng sau đó giảm lại. Vùng vành đai phía tây dự báo sẽ có điều kiện nóng và khô trong hai tuần tới, trong khi vùng vành đai phía đông dự báo có thời tiết ít nóng hơn và mưa nhiều hơn, có thể giảm bớt tác động tiêu cực từ phía tây. Tuần trước, các quỹ giữ một lượng lớn vị thế bán khống. Điều này có thể dẫn đến một đợt tăng giá do các giao dịch mua trả vị thế (short-covering rally). Tuy nhiên, thời tiết hiện tại của Mỹ không đủ xấu để khiến họ thoát khỏi các vị thế bán khống này một cách đáng kể.
Dự kiến công nhân nghiền đậu tương ở Argentina có thể đình công, điều này hỗ trợ nhẹ cho giá đậu tương. Tuy nhiên, trọng tâm vẫn là thời tiết ở Mỹ. Dự báo khô hạn không đủ để giá tăng đáng kể, nên tuần tới thời tiết phải khắc nghiệt hơn mới thu hút được nhà đầu tư. Giá đậu tương tháng 11 chững lại ở mức trung bình động 20 ngày, giống như đầu tháng 7. Chiến lược giao dịch là ưu tiên bán khi giá phục hồi.
Ngô – Thời tiết ở Mỹ đang hỗ trợ nhẹ cho giá ngô, và có khả năng giá ngô sẽ giảm xuống mức thấp vào giai đoạn đậu của vụ hoạch
Giá ngô đã vượt ra khỏi phạm vi đi ngang ngắn hạn nhưng không thể tiếp tục tăng. Tình hình nóng và khô đang diễn ra ở vành đai ngô phía tây và cuối cùng là miền trung trong hai tuần tới, đồng thời tình trạng căng thẳng tiếp tục diễn ra ở một số khu vực trồng ngô ở Biển Đen.
Mặc dù dự báo nhiệt độ cao và lượng mưa thấp thường gây ra mua mạnh, nhưng độ ẩm đất tốt hiện tại giúp cây trồng tránh được thiệt hại lớn. Hiện chỉ 4% diện tích ngô Mỹ bị hạn hán so với 53% năm ngoái. Tình trạng khô hạn cuối mùa có thể ảnh hưởng đến kích thước hạt ngô, đặc biệt là ở vùng vành đai phía tây và lũ lụt cuối mùa xuân có thể làm giảm diện tích thu hoạch ở trung tâm vành đai ngô. Trong những năm có điều kiện cây trồng tốt khả năng giá ngô sẽ đạt mức thấp vào đầu vụ thu hoạch là khá cao.
Trong trung hạn, giá ngô Mỹ có thể được hỗ trợ từ sự sụt giảm sản lượng của Ukraine. Ukraine là một trong những quốc gia xuất khẩu ngô lớn và cạnh tranh trực tiếp với Hoa Kỳ, tuy nhiên nước này nước này đang gặp thời tiết bất lợi khiến sản lượng dự kiến giảm từ 31,00 triệu tấn mùa trước xuống còn 27,70 triệu tấn (USDA), thậm chí thấp hơn theo dự đoán của một số nhà phân tích tư nhân. Sản lượng ngô giảm sút của Ukraine có thể thúc đẩy xuất khẩu ngô của Mỹ. Giá ngô giao tháng 12 khoảng 4,00 USD được coi là hợp lý. Các nhà giao dịch có thể chờ các nhịp điều chỉnh để mua vào và kỳ vọng một đợt tăng giá tiềm năng.
Diện tích trồng ngô và đậu tương của Hoa Kỳ đã đạt trần?
Brazil và Mỹ là hai quốc gia xuất khẩu ngô và đậu tương lớn nhất. Diện tích trồng ngô và đậu tương của Brazil đã tăng từ 118 triệu mẫu trong niên vụ 2013/14 lên 164 triệu mẫu trong niên vụ 2023/24. Sự gia tăng diện tích trồng của Brazil có thể ảnh hưởng đến diện tích trồng của Mỹ trong tương lai.
Diện tích trồng ngô của Mỹ năm 2024 dự kiến là 91,475 triệu mẫu (giảm so với 94,641 triệu mẫu năm 2023), trong khi diện tích trồng đậu tương là 86,100 triệu mẫu (tăng so với 83,600 triệu mẫu năm 2023). Tổng diện tích trồng ngô và đậu tương năm 2024 là 177,575 triệu mẫu, giảm nhẹ so với 178,241 triệu mẫu năm 2023. Diện tích trồng tập trung ở vùng Trung Tây và có thể thay đổi do thời tiết và giá cả.
Diện tích trồng cao nhất là 180,4 triệu mẫu vào năm 2017. Năm 2019 chứng kiến mức thấp nhất trong 15 năm là 165,8 triệu mẫu. Diện tích trồng ngô cao nhất từng đạt 113 triệu mẫu vào năm 1932, trong khi diện tích trồng đậu tương cao nhất chủ yếu trong 10 năm qua.
Giá cả cây trồng là yếu tố chính quyết định diện tích trồng, và việc diện tích trồng gia tăng ở Brazil có thể làm giảm giá cả và ảnh hưởng đến động lực của nông dân Mỹ trong việc mở rộng diện tích trồng.
Lúa mỳ - Nhịp hồi kỹ thuật tiềm năng
Sau khi giảm mạnh trong suốt 5 tuần, giá lúa mì tìm được hỗ trợ trong tuần cuối tháng Sáu. Các chỉ báo kỹ thuật đã đạt đến mức quá bán rất cao trong 2 năm qua, cho thấy một đợt tăng giá có thể sắp xảy ra. Các yếu tố hỗn loạn cuối cùng đã được phản ánh vào giá. Trong vòng 5 tuần từ giữa tháng Tư đến cuối tháng Năm, giá lúa mì tại Chicago (hợp đồng tháng 12) tăng gần 1.70 USD/ giạ do sương giá và khô hạn tại vùng Biển Đen. Tuy nhiên, thu hoạch ở Mỹ đang bắt đầu và báo cáo về năng suất lại tốt hơn dự kiến, dẫn đến việc giá giảm lại gần 1.80 USD/giạ trong vòng 5 tuần tiếp theo, xóa bỏ hết áp lực từ yếu tố thời tiết. Hiện tại, giá lúa mì đã trở lại như trước khi xảy ra vấn đề ở vùng Biển Đen.
Nga hiện chiếm khoảng 25% thương mại xuất khẩu lúa mì toàn cầu. Do đó, bất kỳ biến động đáng kể nào trong diện tích mùa màng hoặc xuất khẩu của họ đều có tác động lớn đến giá lúa mì. Trong báo cáo cung cầu ngày 12/6, USDA đã điều chỉnh sản lượng lúa mì của Nga trong niên vụ 2024/25 xuống còn 83 triệu tấn từ mức 88 triệu tấn vào tháng 5 và 91,5 triệu tấn vào tháng 4, trước khi sương giá ảnh hưởng đến mùa màng. SovEcon, một cơ quan tư vấn có uy tín, cũng giảm dự báo sản lượng lúa mì của Nga xuống còn 80,7 triệu tấn trong tuần.
Có một số báo cáo về năng suất thu hoạch sớm của Nga có phần cải thiện nhẹ. Tuy nhiên, dù sản lượng dao động từ 83 - 84 triệu tấn, con số này vẫn thấp hơn đáng kể so với các dự báo sản lượng vào tháng 4 và đầu tháng 5. Mặc dù vậy, giá lúa mì đã trở lại gần mức của tháng 4, tháng 5 sau đợt giảm mạnh gần đây. Hơn nữa, trong tuần SovEcon đã giảm dự báo xuất khẩu lúa mì của Nga xuống 46,1 triệu tấn, giảm 1,7 triệu tấn do dự kiến vụ mùa nhỏ hơn. Con số này so với 54 triệu tấn xuất khẩu trong niên vụ 2023/24. Xuất khẩu của Ukraine cũng dự kiến sẽ giảm do diện tích trồng giảm trong mùa này. Khả năng xuất khẩu giảm ở vùng Biển Đen mở ra cơ hội cho nhu cầu tăng từ các nhà cung cấp lớn khác như Mỹ, Úc và Canada.
Thu hoạch ở Mỹ đã được hơn 50%, và bang sản xuất lúa mì đông hàng đầu Kansas, đã thu hoạch được 80%. Điều này sẽ dẫn đến áp lực thu hoạch giảm đáng kể trong vài tuần tới. Các nhà giao dịch có thể nắm giữ hoặc mua thêm để tận dụng lợi thế đợt tăng giá này.
La Nina phát triển chậm
Sự kiện El Nino 2023/24 đã kết thúc với sự chuyển tiếp sang pha trung tính ENSO trong tháng 4 – tháng 6. Cập nhật mới nhất từ Trung tâm Dự báo Khí hậu Hoa Kỳ (CPC) cho thấy giai đoạn trung tính sẽ tiếp tục đến hết tháng này, đồng thời dự báo 70% khả năng La Nina sẽ phát triển trong tháng 8 – tháng 10.
Trong nghiên cứu khí hậu, El Nino diễn ra khi chỉ số ONI đạt 0,5 độ C hoặc cao hơn mức trung bình, trong khi La Nina sẽ xuất hiện khi ONI đạt -0,5 độ C hoặc dưới mức trung bình. Giai đoạn ENSO trung tính sẽ diễn ra nếu ONI nằm giữa -0,5 và 0,5 độ C.
Số liệu cho thấy El Nino 2023/24 đạt đỉnh +2.0 vào tháng 11/2023 – tháng 1/2024, cao hơn khá nhiều so với mức +1,5 và gần với các sự kiện El Nino mạnh trong quá khứ (+2,2 giai đoạn 1982/93, +2,4 giai đoạn 1997/98). Các dự báo sớm cho thấy La Nina tới đây sẽ chạm ngưỡng ONI thấp nhất -1,0 trong khoảng tháng 11/2024 – tháng 1/2025, cho thấy mức độ La Nina vừa phải.
Sự kiện La Nina thường mang đến lượng mưa trên mức trung bình cho vành đai ngô phía đông, nhiệt độ cao hơn mức trung bình cho vùng đông nam nước Mỹ, và lượng mưa thấp hơn trung bình ở phía nam
Brazil và Argentina, các vùng trồng chính đối với đường, cà phê, đậu tương và ngô.
Như vậy, việc La Nina bắt đầu trễ có thể ảnh hưởng đáng kể đến sản lượng toàn cầu của nhiều loại mặt hàng quan trọng.
Đường – Sản lượng gia tăng sẽ gây áp lực lên giá
Các dự báo sản lượng đường vụ 2024/25 đã tăng lên trong quý 2 và điều này sẽ gây áp lực lên giá trong những tháng tới.
Sản lượng đường của khu vực Trung Nam Brazil từ tháng 4 đến tháng 6 ghi nhận mức 14,2 triệu tấn, tăng 15,7% so với vụ trước. Tỷ trọng nghiền đường trong quý 2 đạt 48,7%, so với 47,7% vụ trước, cho thấy các nhà máy đang ưu tiên sản xuất đường hơn ethanol.
Sau khi chững lại vài tuần, gió mùa Ấn Độ đã tiếp tục tiến trình và bao phủ toàn bộ các vùng. Tính đến 18/7, lượng mưa gió mùa thấp hơn 3% so với mức trung bình dài hạn, tuy nhiên được kỳ vọng sẽ ở trên mức trung bình về nửa cuối mùa. Điều này sẽ hỗ trợ cho mía phát triển và tăng khả năng rằng sản lượng đường vụ 2024/25 của Ấn Độ sẽ ngang bằng hoặc vượt qua vụ 2023/24.
Trong khi Ấn Độ vẫn đang giữ lệnh cấm xuất khẩu, sản lượng cải thiện sẽ có thể thúc đẩy dỡ bỏ lệnh cấm. Ngoài ra, sản lượng của Thái Lan cũng sẽ có sự phục hồi, dẫn đến lượng xuất khẩu tăng lên. Do đó, với nguồn cung ước tính khá dồi dào, điều này sẽ gây áp lực lên giá đường trong những tháng tới. Nhà đầu tư có thể tận dụng các nhịp tăng của thị trường để tiếp cận chiều bán xuống.
Cacao – Dự kiến giá giảm trong Quý 3
Ca cao là một trong những hàng hoá có sức tăng mạnh nhất năm nay với mức đỉnh ghi nhận 12.137 USD/tấn vào cuối tháng 4, hơn gấp đôi so với kỷ lục 5.107 USD vào tháng 7/1977. Động lực chính thúc đẩy giá là sự sụt giảm sản lượng. Bờ Biển Ngà, quốc gia sản xuất ca cao lớn nhất thế giới, được dự kiến sẽ có mức sản lượng 2023/24 dưới 1,8 triệu tấn sau 5 mùa vụ đạt trên 2,1 triệu tấn. Bên cạnh đó, Ghana, quốc gia sản xuất lớn thứ hai, có thể gặp khó khăn trong việc đạt 500 nghìn tấn, mức thấp nhất trong 19 năm.
Kết quả là thị trường dự kiến sẽ thâm hụt mức kỷ lục 439 nghìn tấn, và là năm thâm hụt thứ 3 liên tiếp. Tuy nhiên, triển vọng mùa vụ 2024/25 ở Tây Phi dự kiến sẽ có sự cải thiện, nhờ sự phát triển của La Nina về cuối năm, giúp mang đến mưa cho các vùng trồng chính. Các dự báo sớm cho thấy sản lượng vụ tới của Bờ Biển Ngà có thể hồi phục lên hơn 2 triệu tấn.
Cho đến nay, giá cao đã lám uy yếu nhu cầu. Hoạt động nghiền 2023/24 trên toàn cầu kỳ vọng sẽ giảm 218 nghìn tấn so với vụ trước, mức giảm lớn nhất kể từ 2008/09.
Nếu nhu cầu tiếp tục suy giảm trong khi nguồn cung phục hồi, giá ca cao sẽ giảm đáng kể trong quý 3, và sự tăng giá trong ngắn hạn sẽ là cơ hội tốt cho các nhà đầu tư để canh bán xuống.